Đế quốc Trung Hoa thời Nhà Minh năm 1580.
(Nguồn:Wiki.)
*
Bên Trung Hoa, năm 1368 (Mậu Thân), Chu Nguyên Chương (Zhu Yuan Zhang) lật đổ nhà Nguyên, lên ngôi hoàng đế tức Minh Thái Tổ (trị vì 1368-1398), lập ra nhà Minh (1368-1644). Đối với người Trung Hoa, nhà Nguyên là ngoại tộc, vì thuộc giống Mông Cổ; còn nhà Minh mới là chính tông người Hán. Minh Thái Tổ (Ming Tai Zu) từ trần năm 1398 (mậu dần), truyền ngôi lại cho cháu đích tôn là Minh Huệ Đế (trị vì 1399-1403), vì cha của Huệ Đế là hoàng thái tử Tiêu đã qua đời.
Minh Huệ Đế (Ming Hui Di) chủ trương tập trung quyền hành về trung ương, mưu trừ và giết hại các phiên vương. Phiên vương nước Yên tên là Lệ, ở phía bắc Trung Hoa, con trai thứ của Minh Thái Tổ và là chú của Minh Huệ Đế, tức giận nổi lên chống Huệ Đế. Yên Vương Lệ là một người có tài cầm quân, đánh thẳng vào kinh đô Kim Lăng (Jin Ling) (Nam Kinh ngày nay), lật đổ Huệ Đế, rồi tự mình lên làm vua tức Minh Thành Tổ (trị vì 1403-1424).
Minh Thành Tổ (Ming Cheng Zu) là một người rất tham vọng, mạnh mẽ chủ trương bành trướng thế lực ra nước ngoài. Ông thành lập một hạm đội hùng hậu do Trịnh Hòa (Zheng He) điều khiển. Trịnh Hòa (1371-1433) đã dẫn hạm đội xuống Bắc Úc, qua bán đảo Ả Rập, đến Đông Phi Châu, và có tài liệu cho rằng Trịnh Hòa qua tận Mỹ châu.
Chính Minh Thành Tổ đã cử hai tướng Trương Phụ (Zhang Fu) và Mộc Thạnh cầm quân sang đánh Đại Việt năm 1406. Quân Minh bắt được gia đình Hồ Quý Ly năm 1407. Con cháu nhà Trần là Giản Định Đế (trị vì 1407-1409) và Trùng Quang Đế (trị vì 1409-1413) nổi lên tiếp tục chống quân Minh, cũng lần lượt bị quân Minh dẹp yên. Nhà Minh đô hộ Đại Việt và cách thức thực hiện cuộc đô hộ của nhà Minh rất thâm độc, có thể sơ lược như sau.
Minh Thành Tổ ( 明成祖)- Chu Lệ (hay Đệ) (朱棣). (Nguồn:Wiki.)
I.- Sát nhập Đại Việt vào Trung Hoa
1. Nhà Minh đổi Đại việt thành quận Giao Chỉ
Trước khi bắt được gia đình Hồ Quý Ly, vua Minh Thành Tổ xuống chiếu tháng 4 năm đinh hợi (1407) nói là tìm kiếm con cháu nhà Trần để lập làm vua thay nhà Hồ, vì nhà Hồ đã cướp ngôi nhà Trần. Nói thế để lừa phỉnh dân Việt, chứ khi Trần Thúc Dao, con của quan Tư đồ Trần Nguyên Đán, dòng dõi Trần Quang Khải, ra hợp tác với quân Minh, quân Minh làm ngơ và không đưa lên ngôi. Vào tháng 6 năm đinh hợi (1407), nhà Minh quyết định đổi Đại Việt thành quận Giao Chỉ, sáp nhập vào Trung Hoa.2. Tổ chức hành chính
Tổ chức hành chánh trung ương quận Giao Chỉ giống như một quận bên Trung Hoa, gồm ba ty là Giao Chỉ đô chỉ huy sứ ty, Thừa tuyên bố chánh ty và Đề hình án sát sứ ty. Nhà Minh đổi tên thủ đô Đông Đô (Thăng Long) thành Đông Quan, chia quận Giao Chỉ (Đại Việt) thành 15 phủ và 5 châu lớn như sau: phủ Giao Châu, Bắc Giang, Lạng Giang, Tam Giang, Kiến Bình, Tân Yên, Kiến Xương, Phụng Hóa, Thanh Hoa, Trấn Man, Lạng Sơn, Tân Bình, Diễn Châu, Nghệ An, Thuận Hóa; châu Thái Nguyên, Tuyên Hóa, Gia Hưng, Quy Hóa, Quảng Oai.(1)
Nhà Minh đưa người Trung Hoa sang nắm giữ những chức vụ then chốt quan trọng, và dùng một số người Việt chịu cộng tác với họ trong các chức vụ địa phương, nhắm chiêu dụ những người yêu nước đang tiếp tục chiến đấu chống quân Minh.
3. Sự bóc lột của nhà Minh
Một năm, mỗi mẫu ruộng (tức chỉ 3 sào), nhà đô hộ Minh triều thu thuế 5 thăng lúa, đất bãi dâu mỗi mẫu thu thuế 1 lạng tơ, mỗi cân tơ thu thuế 1 tấm lụa. Năm 1415, nhà Minh lập các trường (ruộng) muối ven biển, kiểm soát việc sản xuất và đánh thuế muối. Ai buôn lậu hay sản xuất lậu đều bị phạt như nhau. Muối là thực phẩm căn bản quan trọng của người Việt, nhất là dân nghèo, hoàn toàn nằm trong quyền kiểm soát của quân Minh.
Về quân sự, vào đầu năm bính thân (1416), Trương Phụ ra lệnh xét duyệt danh số quân đội địa phương (thổ quân). Ba đinh (đàn ông) thì lấy một người làm lính. Số lính địa phương được tuyển, dùng để chia đi canh giữ các nơi.
Để kiểm soát chặt chẻ dân chúng như bên Trung Hoa, năm 1419 (kỷ hợi), Lý Bân cho thi hành biện pháp hoàng sách và hộ thiếp. Theo biện pháp nầy, ở hạ tầng tại thành phố gọi là phường, tại vùng chung quanh thành phố gọi là tương (hay sương), tại nông thôn gọi là lý. Mỗi lý có 110 hộ (gia đình) do một lý trưởng đứng đầu. Mười hộ là một giáp có một giáp thủ đứng đầu.
Mỗi hộ giữ một hộ thiếp ghi rõ tên tuổi, quê quán, số đinh trong hộ đúng theo sổ hộ khẩu do nhà cầm quyền giữ. Mỗi lý phải làm một quyển sổ gọi là sách, ghi rõ số đinh, số điền dựa trên căn bản hộ. Đầu sách có vẽ bản đồ, cuối sách liệt kê những người tàn tật cô quả. Sách viết làm bốn bản: một bản bìa vàng gọi là hoàng sách nạp lên bộ hộ, ba bản kia bìa xanh đặt ở ty bố chính sứ, phủ, huyện, mỗi nơi một bản.(2)
Quân Minh còn chở về Trung Hoa hầu như toàn bộ sách vở đã có từ thời Hồ Quý Ly trở về trước. Đó là sách của các tác giả sau đây: Lý Thái Tông (Hình thư), Trần Thái Tông (Hình luật, Quốc triều thông lễ, Kiến Trung thường lễ, Khóa hư tập, Ngự thi), Trần Thánh Tông (Di hậu lục, Cờ cừu lục, Thi tập), Trần Nhân Tông (Trung hưng thực lục, Thi tập), Trần Anh Tông (Thủy vân tùy bút), Trần Minh Tông (Thi tập), Trần Dụ Tông (Trần triều đại điển), Trần Nghệ Tông (Bảo hòa điện dư bút, Thi tập), Trần Hưng Đạo (Binh gia yếu lược, Vạn Kiếp bí truyền), Chu Văn Trinh tức Chu Văn An (Tứ thư thuyết ước, Tiều ẩn thi), Trần Quốc Toại (Sầm lâu tập), Trần Quang Khải (Lạc đạo tập), Trần Nguyên Đán (Băng Hồ ngọc hác tập), Nguyễn Trung Ngạn (Giới Hiên thi tập), Phạm Sư Mạnh (Giáp thạch tập), Trần Nguyên Đào (Cúc Đường di thảo), Hồ Tông Thốc tức Hồ Tông Vụ (Thảo nhàn hiệu tần, Việt nam thế chí, Việt sử cương mục), Lê Văn Hưu (Đại Việt sử ký), Nguyễn Phi Khanh (Nhị Khê thi tập), Hàn Thuyên (Phi sa tập), Lý Tế Xuyên (Việt điện u linh tập) ...(5)
Cũng trong năm 1414, nhà Minh mở trường học ở Thăng Long và các phủ, châu, huyện. Để thay thế sách vở người Việt đã bị quân Minh tịch thu và tiêu hủy, năm 1419 (kỷ hợi) nhà Minh cho phát hành rộng rãi sách vở Trung Hoa do vua Minh cho san định lại như Tứ thư [Đại học, Trung dung, Luận ngữ, Mạnh tử], Ngũ kinh [Dịch, Thi, Thư, Lễ, Xuân thu], Tính lý đại toàn... (8)
III.- Chính sách khai thác tài nguyên
1. Nông nghiệp
Chiến thắng xong nhà Hậu Trần, người Minh ra lệnh cho các phủ, huyện, châu ở nước ta phải trồng hồ tiêu. Từ tháng 4 năm mậu tuất (1418), họ bắt đầu trưng thu hồ tiêu đem về Trung Hoa, nhắm cung cấp cho ngành xuất cảng qua tây phương theo “con đường hương liệu và gia vị”. Người Minh buộc các địa phương (phủ, huyện) phải nạp đặc sản để chuyển về Trung Hoa như: hương liệu, hươu trắng, chim vẹt, vượn bạc má, trăn ...
Người Minh còn bắt dân chúng vùng rừng núi tìm bắt voi, tê giác, và dân chúng làm nghề chài lưới ven biển đi mò ngọc trai. Tháng 7 năm mậu tuất (1418), người Minh thiết lập trường sở thu ngọc trai tại hai địa điểm có hải phận sinh sản nhiều ngọc trai. Đó là Vĩnh An (Tiên Yên, Vạn Ninh, Quảng Yên) và Vân Đồn (Vân Hải, Quảng Yên). Hằng ngày, hàng ngàn dân bị đưa đi mò ngọc trai cho người Minh.
Người Minh thu mua vàng bạc quý hiếm chở về Trung Hoa. Tháng 8 năm ất mùi (1415), nhà Minh thiết lập các trường cục cai quản các vùng mỏ vàng bạc, đốc thúc dân đinh khai đào các kim loại quý, kiểm điểm sản lượng và niêm phong nạp lên thượng cấp.
3. Giao thông thương mại Để dễ vận chuyển, người Minh thiết lập một lộ trình mới từ Quảng Đông qua Đông Quan (Thăng Long), chia làm hai đoạn: từ Khâm Châu (thuộc Quảng Đông ngày nay) đi đường biển tới các cảng Vạn Ninh (thuộc Quảng Yên), Đông Triều, Chí Linh (Hải Dương). Các nơi nầy đều có đặt trạm liên lạc bằng thuyền. Từ Vạn Ninh, Đông Triều, Chí Linh đến Đông Quan (Thăng Long), người Minh đặt các trạm chạy bằng ngựa theo đường bộ.
Cuộc đô hộ của nhà Minh tuy ngắn ngủi, chỉ trong vòng hơn 20 năm (1407-1428), nhưng ảnh hưởng lâu dài về nhiều mặt, do chính sách khai thác thuộc địa rất tàn nhẫn, và chính sách tận diệt nền văn hóa Đại Việt, nhằm đồng hóa người Việt của nhà Minh.
-----------(...)
Chú thích 1. Đào Duy Anh, Đất nước Việt Nam qua các đời, in lần thứ hai, Huế: Nxb. Thuận Hóa, 1997, tr. tr. 163. [Đào Duy Anh căn cứ trên tài liệu Thiên hạ quận quốc của Trung Hoa.] Ngoài 15 phủ trên đây, năm 1414, quân Minh đặt thêm phủ thứ 16 là phủ Thăng Hoa, nhưng chưa tổ chức đưọc nền cai trị tại phủ nầy thì bị quân Chiêm Thành chiếm. http://vn.myblog.yahoo.com/vanph_vanpham/article?mid=2241
2. Chính sách nầy do nhà Minh áp dụng ở Trung Hoa từ năm 1381. (Quốc sử quán triều Nguyễn, Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chữ Nho), Hà Nội: bản dịch của Nxb. Giáo Dục, 1998, tập 1, tt. 767-768.)
3. Theo Lê Quí Đôn trong Vân đài loại ngữ, mục "Vựng điển loại", trích dẫn sách Cô thụ biều đàm, Lê Trừng tức Hồ Nguyên Trừng được nhà Minh phong làm hộ bộ thượng thư. Lê Quí Đôn cũng trích dẫn Minh sử nói rằng "trong niên biểu của thất khanh (bảy vị quan to), có nói đến Lê Trừng làm binh bộ thượng thư". Minh sử còn chép rằng: "Năm Vĩnh Lạc [1403-1424], vua Minh thân chinh Mạc bắc. Khi giặc kéo ào đến, bèn đem thần sang của nước An-Nam ra đánh..." (Vân đài loại ngữ, bản dịch của Phạm Vũ và Lê Hiền, Tự Lực tái bản, Hoa Kỳ, tt. 238-239). Thần sang An Nam ở đây là súng thần công do Hồ Nguyên Trừng chế tạo. Hồ Nguyên Trừng có soạn sách Nam ông mộng lục, viết về 31 nhân vật nổi tiếng trong lịch sử nước nhà. Có lẽ nhờ Hồ Nguyên Trừng mà Hồ Quý Ly và Hồ Hán Thương không bị giết, mà chỉ bị đày đi Quảng Châu.
4. Phạm Cao Dương "Từ nạn trộm cắp các cổ vật tại Việt Nam đến tham vọng bá quyền về văn hóa của Trung Quốc", nguyệt san Thế Kỷ 21, số 130-131, tháng 2 & 3-2000, tr. 54.
5. Cương mục, sđd. tr. 765, "Lời chua". Khi chua như trên, các soạn giả bộ Cương mục dựa vào "Văn tịch chí" trong Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú. Tuy Phan Huy Chú đề tên tác giả các sách về hình luật, điển lễ trên đây là các vua, thật ra là do các quan soạn dưới triều các vua đó. Ngoài ra, vài tác phẩm hiện đã tìm thấy lại được như Khóa hư tập của vua Trần Thái Tông, Việt điện u linh tập của Lý Tế Xuyên, hoặc còn sót lại vài bài thơ như của Trần Thái Tông, Trần Quang Khải...
6. Đời nhà Trần trở về trước, dân Việt theo tục xâm mình và cắt tóc.
7. Stanley Karnov, Viet Nam a History, New York: The Viking Press, 1983, tr. 103.
8. Ngô Sĩ Liên, Đại Việt sử ký toàn thư [chữ Nho], Hà Nội: Nxb. Khoa học Xã hội, bản dịch tập 2, 1998, tt. 236, 242. Tính lý đại toàn: Bộ sách do Hồ Quảng vâng lệnh vua Minh soạn ra, nội dung dựa vào học thuyết của các Nho sĩ đời Tống.
9. Tứ ngược: hết sức tàn ngược. [Chú thích 10, 11 và 12 theo Trần Trọng Kim trong Việt Nam sử lược.]
10. Khoa liễm: thuế má.
11. Quan quả điên liên: Quan: người không vợ; quả: người góa chồng; điên liên: những kẻ không có nhà ở, không trông cậy vào đâu được.
12. Trần Trọng Kim, Việt Nam sử lược, Sài Gòn: Nxb. Tân Việt tái bản, 1964, tr. 229.
____________
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét