Thứ Ba, 8 tháng 12, 2009

Chuyện Bà Triệu

Bà Triệu Ẩu - Tranh Đông Hồ

Hình ảnh Bà Triệu trong rất nhiều tài liệu đều nói, bà có cặp vú rất dài. Như cuốn Lịch sử VN tập I, nxb Đại học & THCN, năm 1983 do các tác giả Phan Huy Lê, Trần Quốc Vượng, Hà Văn Tấn, Lương Ninh biên soạn thì huyền thoại về một người phụ nữ có “vú dài ba thước” vốn rất phổ biến ở phương Nam, từ Hợp Phố đến Cửu Chân. Như truyện “Tẩy thị phu nhân”, “Tiểu quốc phu nhân” đều nói họ là những phụ nữ cao to và có vú dài đôi ba thước….Có thể, vì bà Triệu cũng là một người phụ nữ kiệt xuất, nên dân gian đã dùng hình tượng này khoác lên cho bà (?)

Hình ảnh Bà Triệu dưới ngòi bút trong một bài thơ vịnh sử Nôm của vua Lê Thánh Tông rất hào hùng nhưng vú rất dài:

Cao một trượng, cả mười vừng

Bỏ tóc ngang lưng, vú chấm sừng

Hợp chúng rừng xanh, oai náo nức

Cưỡi đầu voi trắng, tiếng vang lừng

Mác dài trỏ vẫy tan đàn giặc

Ngôi cả lăm le học họ Trưng

Vì có anh hùng duyên định mấy

Thời chi Đông Hán dám tung tăng

Và trong Thiên Nam ngữ lục, nhà vua cũng mô tả cặp vú chẳng hề đẹp chút nào:

Cửu Chân có một nữ nhi

Lẩn thẩn qua kì, tuổi ngoại hai mươi

Chồng con chưa có được nơi

Cao trong tám thước rộng ngoài mười gang

Uy nghi diện mạo đoan trang

Đi đường chớp thét, đồng đường sấm vang

Mặt như vầng nguyệt mới lên

Mắt sáng như đèn má tựa lan gioi

Vú dài ba thước lôi thôi

Ngồi chấm đến đùi, cúi rủ đến chân

Sức quảy được vạc nghìn cân

Chẳng hiềm Mã Viện, hơn phân Lí Thù…

…Ta hiềm phận gái lỡ làng

Ví trai nọ cũng làm vua nước này

Rủ rê tử đệ đêm ngày

Chiêu binh mãi mã kể rày mười muôn..

…Nàng chịt hai vú lên voi

Trận ra, ai kẻ dám coi đâu là

...Nàng rao: bảo quốc anh hùng

Ai ra tay quét dẹp xong giặc này

Sách Đại Việt sử kí toàn thư (ĐVSKTT), đoạn viết về Bà Triệu có ghi: “ Người con gái ở quận Cửu Chân là Triệu Ẩu tụ họp dân chúng đánh chiếm các quận huyện. Ẩu vú dài ba thước, vắt ra sau lưng, thường ngồi trên đầu voi đánh nhau với giặc. Trong sách Giao Chỉ chí cũng chép: “Trong núi ở quận Cửu Chân có người con gái họ Triệu, vú dài 3 thước, không lấy chồng, họp đảng cướp bóc các quận, huyện, thường mặc áo ngắn màu vàng, chân đi giày mũi cong, ngồi đầu voi mà chiến đấu, sau chết làm thần”. Nhiều tài liệu có nêu, người Tàu thấy dân Việt hết sức thờ kính bà Triệu, gọi bà là Bà Vương thì ghét lắm. Cuộc khởi nghĩa này đã làm bọn giặc Ngô kinh hãi, nên người Ngô bịa truyện vú dài tới cạp váy để bêu xấu bà Triệu hơn là để khen. Theo quan niệm người Hán. Đàn bà vú dài là người dâm đãng. Bà Triệu vú dài ắt là người dâm đãng vậy. Họ còn khuyến khích các nhà viết sử xuyên tạc, tả bà vú dài, gọi bà là Triệu Ẩu (趙嫗: dịch ra tiếng Việt là con mụ già họ Triệu, hoặc “nữ tù trưởng Triệu”). Các nhà nho nước ta vớ được mớ “phổ giả„ và dân gian lưu truyền ấy cứ đinh ninh là thực và ai cũng theo luận điệu của kẻ thù “khen„ bà Triệu “vú dài„….âu cũng là một tai nạn cho bậc danh nhân vậy! Vì tất cả các mô tả một cô gái trẻ, chưa chồng, còn trinh, chưa nuôi con như thế, có lẽ chưa hợp lý. Cứ y học mà suy thì đủ biết. Tỳ chủ khí, chủ về bắp thịt. Khi người tập võ, thì chân khí phải mạnh, bắp thịt cứng rắn. Bà Triệu có võ công cao như vậy, bắp thịt phải cứng lắm. Bắp thịt cứng thì làm sao vú dài được?

Sách Việt Nam Sử lược của Trần Trọng Kim ghi: “Sử ta chép rằng bà Triệu là người huyện Nông-cống. Thủa nhỏ cha mẹ mất cả, ở với anh là Triệu quốc Đạt, đến độ 20 tuổi gặp phải người chị dâu ác nghiệt, bà ấy giết đi rồi vào ở trong núi. Bà ấy là một người có sức mạnh, lại có chí - khí và lắm mưu - lược. Khi vào ở trong núi chiêu mộ hơn 1000 tráng sĩ để làm thủ hạ. Anh thấy thế mới can bà, thì bà bảo rằng: "Tôi muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp luồng sóng dữ, chém cá tràng kình ở bể đông chứ không thèm bắt chước người đời cúi đầu cong lưng để làm tì thiếp người ta."

Sách Giai thoại về phụ nữ VN cho biết một chi tiết khá thú vị liên quan đến câu nói trên như sau: “Triệu Quốc Đạt có người vợ tên Đinh Nữ Vĩ rất đanh đá. Với cô em chồng này, bà ta chẳng ưa gì nhưng bề ngoài bà vẫn thơn thớt nói cười. Bà muốn ghép cho em trai của bà là Đinh Vạn Úng để làm nàng hầu. Một hôm Úng tới chơi, buông lời bỡn cợt. Trước đông đủ mọi người, Trinh đã nói câu vừa ghi trên khiến ai nấy thảy đều kinh ngạc và thầm thán phục. Dĩ nhiên tên Úng háo sắc kia phải thẹn đỏ mặt, kiếm đường lủi mất.

Lệnh Bà sức khoẻ đang xuân

Cỡi đầu voi dữ diệt quân bạo tàn

Người dân ở thôn Cẩm Trướng thuộc xã Định Công còn truyền lại câu chuyện, tại vùng núi tại địa phương có con voi trắng một ngà rất dữ tợn hay về phá hoại mùa màng, mọi người đều sợ. Để trừ hại cho dân, Bà Triệu cùng chúng bạn đi vây bắt voi, lùa voi xuống đầm lầy (vùng sông Cầu Chầy ngày xưa còn lầy lội) rồi dũng cảm nhẩy lên cưỡi đầu voi và cuối cùng đã khuất phục được con voi hung dữ. Chú voi trắng này sau trở thành người bạn chiến đấu trung thành của bà Triệu.

Tiếng tăm cô gái 19 tuổi trị voi rừng vang dội khắp nơi, càng thu hút thêm nhiều người đi theo bà. Từ đó cả vùng đã đồn ầm lên rằng núi kia biết nói, báo hiệu cho dân chúng biết bà Triệu là "thiên tướng giáng trần" giúp dân, cứu nước.

Có bà Triệu tướng,

Vâng lệnh Trời ta.

Trị voi một ngà,

Dựng cờ mở nước.

Lệnh truyền sau trước,

Theo gót Bà Vương.

(Đồng dao xứ Thanh)

Hàng ngũ nghĩa quân thêm lớn, thanh thế thêm to. Họ kéo nhau xuống Phú Điền dựng căn cứ.

Ru con con ngủ cho lành

Để mẹ gánh nước rửa bành cho voi

Muốn coi lên núi mà coi

Coi bà Triệu tướng cưỡi voi đánh cồng

Túi gấm cho lẫn túi hồng

Têm trầu mũi mác cho chồng trẩy quân ”

(Thơ ca dân gian)

Rất nhiều câu chuyện nửa hư nửa thực, thể hiện tình dân đối với công cuộc khởi nghĩa của bà Triệu. Như chuyện một ông già mù miền núi đã đi khắp nơi, dùng tiếng đàn, giọng hát của mình để ngâm ngợi cổ vũ dân chúng đứng dậy cứu nước. Một bà cụ hàng nước cố xin cho con gái được theo quân giết giặc, còn mình thì giúp cả chõng chuối với chum nước chè xanh cho nghĩa binh đang trẩy quân qua đỡ lòng, đỡ khát. Dọc sông Mã, vùng Cẩm Thạch có truyền thuyết và di tích về một bà nữ tướng cưỡi voi đánh giặc Ngô (ám chỉ bà Triệu)

Vùng Khang Nghệ còn có truyền thuyết nói rằng, thời xưa sông Mã có một nhánh chảy từ đầm Hàn về cửa Lạch Trường. Đó là nơi quân Ngô chiếm giữ, chiến thuyền san sát như lá tre. Một chàng trai đã ăn trộm ngựa chiến của quân giặc trốn về với bà Triệu và trở thành dũng tướng của nghĩa quân. Trong một trận giao tranh trên sông nước, vì anh đi chân vòng kiềng nên đã vấp phải dây chằng mà tử trận. Giặc Ngô đang ăn mừng thắng lợi thì hai bờ sông chuyển động. Đất trời nổi cơn giận dữ, hắt rừng cây núi đá xuống lấp cạn dòng sông, chôn vùi cả mấy vạn xác thù...

Nơi trung tâm tụ nghĩa là vùng núi Tùng Sơn (Phú Điền). Ở đây còn có núi Chung Chinh với 7 đồn lũy tương truyền là quân doanh của bà Triệu, nơi đã từng diễn ra trên ba chục trận đánh với quân Ngô.

Dưới chân núi Tùng, còn có cánh đồng Lăng Chúa (lăng bà Triệu), đồng Vườn Hoa, đồng Xoắn ốc... tương truyền là tên cũ còn lại khi bà Triệu đắp lũy xây thành. Ở đây còn lưu hành rộng rãi truyền thuyết về ba anh em nhà họ Lý đi tìm bà Triệu, rước bà từ quê ra đây dựng doanh trại, sửa soạn khởi nghĩa và tôn bà làm chủ tướng..

Cửu Chân trăm trận gan hơn sắt

Lục Dận nhiều phen mắt đã vàng.

(Thơ ca dân gian)

Bà chỉ huy nghĩa quân vô cùng gan dạ. Ra trận, bà thường mặc áo giáp đồng, đi guốc ngà, cài trâm vàng, nên đời sau, thường gọi tên bà là Nhuỵ Kiều tướng quân (Nữ tướng yêu kiều), là Lệ Hải bà vương (Vua bà vùng biển mỹ lệ, có sách cho rằng vì quân Ngô hễ trông thấy bà là sợ đến phát khóc, nên chúng gọi bà bằng cái tên này).

Bấy giờ, ở phương Bắc, Tôn Quyền mặc dầu đang phải lo đối phó với hai nước Ngụy, Thục nhưng vẫn phải phái viên danh tướng Lục Dận (cháu họ viên danh tướng Lục Tốn), một tướng từng kinh qua trận mạc, lại rất quỷ quyệt sang làm thứ sử.

Lục Dận đem 8.000 quân tinh nhuệ sang đàn áp. Trong lúc nguy nan thì anh bà không may lâm trọng bệnh rồi mất (sách Giai thoại về phụ nữ VN, tr 10 ghi ông Đạt tử trận). Tướng sĩ bèn tôn bà lên thay anh giữ quyền chủ tướng tối cao.

Khi ấy, Lục Dận vừa đánh vừa đem của cải chức tước ra dụ dỗ mua chuộc các thủ lĩnh người Việt. Một số kẻ phản bội, ngả theo địch. Mặc dầu vậy, Triệu Thị Trinh vẫn kiên cường chối bỏ lời dụ dỗ của giặc, tiếp tục đánh gây cho giặc nhiều tổn thất, khiến chúng phải run sợ bảo nhau:

"Hoành qua đương hổ dị

Đối diện Bà Vương nan"

(Nghĩa là: cầm giáo chống lại hổ còn dễ, chứ đối địch với bà Triệu thì thật khó).

Truyền thuyết dân gian kể rằng, về sau có kẻ phản bội, mách với Lục Dận rằng bà là nữ tướng ái khiết úy ô (yêu cái trong sạch, ghét cái nhơ bẩn). Quân Ngô liền trần truồng tiến đánh bà, khiến bà mắc nạn.

Ngày hai mươi mốt tháng hai là ngày diễn ra trận đánh cuối cùng của bà với Lữ Đại. Nhân đó dân chúng lấy làm ngày giỗ. Lúc bấy giờ bà mới 23 tuổi.

Huyền sử kể rằng khi Lữ Đại đem quân vây hãm thành Cửu-chân (Thanh-hóa), bà cùng 300 đệ tử rút lên núi Chung-chinh. Lữ Đại hao binh tổn tướng không biết bao nhiêu mà lên núi không được. Lữ vây hơn năm, lúc lên được núi, thì chỉ thấy doanh trại điêu tàn, người không một bóng. Sau dân chúng nhớ công đức xây hai ngôi lăng tượng trưng. Một trên núi Chung-chinh. Lăng này bị Trương Phụ phá hủy hồi 1408. Còn lăng ở núi Sơn-trang, nay vẫn còn, cùng với đền thờ. Dân chúng gọi núi này là núi Gai hay núi Tùng, thuộc xã Phú-điền, nay là xã Triệu-lộc huyện Hậu-lộc, tỉnh Thanh-hóa.

Trong một ghi chép (dã sử) có đoạn: "…. Lữ Đại cho quân tiến lên, thì thấy trang trại hoang vu. Không một bóng người, một bóng ngựa. Còn Trinh-Nương có thuyết nói bà ẩn thân hành hiệp. Có người nói bà sang Kiến-nghiệp, giết chết Ngô chúa là Tôn Quyền. Việc này xẩy ra vào niên hiệu Diên-hy thứ 15 Hậu-Hán. Hậu-chúa nhằm năm Nhâm-Dần ( 252 sau Tây lịch). Con Quyền là Tôn Lượng lên thay cải niên là Kiến-hưng.

Sau này dân chúng xây lăng tượng trưng để thờ kính. Chứ cho đến nay không ai biết bà mất ở đâu, mất bao giờ, thì làm sao có xác để chôn"….

Trông bành voi, Ngô cũng lắc đầu, sợ uy Lệ Hải Bà Vương, những muốn bon chân về Bắc quốc

Ngồi yên ngựa, khách đi hoài cổ, tưởng sự Lạc Hồng nữ tướng, có chăng thẹn mặt đáng nam nhi

(Câu đối nôm không rõ tác giả)

Tương truyền bà Triệu mất đi, nhưng anh linh vẫn không tan. Nhiều đêm dân làng các vùng Bồ Điền, Phú Điền vẫn nghe văng vẳng trên không trung tiếng voi gầm, ngựa hí và tiếng cồng thúc quân dóng dả.

Đầu voi phất ngọn cờ vàng,

Sơn thôn mấy cõi chiến trường xông pha

Chông gai một cuộc quan hà,

Dù khi chiến tử còn là hiển linh

(Đại Nam quốc sử diễn ca - Phạm Đình Toái và Lê Ngô Cát)

Năm Lý Bôn khởi nghĩa, ông mộng thấy Bà Triệu hẹn sẽ giúp sức để tiêu diệt quân xâm lược nhà Lương. Quả nhiên, trong một trận giao tranh, bỗng có một cơn lốc xoáy nổi lên. Bọn tướng giặc là Tôn Quýnh, Lý Tử Hùng tối tăm mặt mũi, bị Lý Bôn đánh cho tan nát.

Khi Lý Bôn lên ngôi (Lý Nam đế), nhớ ơn bà phù trợ, đã sai lập miếu thờ, xây lăng mộ bà ở làng Phú Điền (Thanh Hóa) và phong bà là: "Bật chính Anh liệt Hùng tài Trinh nhất phu nhân".

Tại núi Tùng, xã Triệu Lộc, huyện Hậu Lộc, Thanh Hóa vẫn còn di tích lăng mộ của bà, cách nơi bà mất không xa (ngay bên Quốc lộ 1A) là khu thờ bà. Hằng năm, vào ngày 19 đến ngày 24 tháng 2 âm lịch, người dân trong vùng vẫn tổ chức tế giỗ bà để tưởng nhớ về người con gái anh hùng của dân tộc Việt.

Khởi nghĩa Bà Triệu thất bại, nhưng hình ảnh người con gái kiên trinh bất khuất, người nữ anh hùng dân tộc siêu việt quyết nối chí Bà Trưng "giành lại giang san, cởi ách nô lệ" muôn thuở không mờ trong tâm trí phụ nữ và dân tộc Việt Nam.

Thơ văn truy niệm bà từ xưa đến nay rất nhiều!

Miếu tạc bia truyền lẫn khói nhang

Nghìn thu oanh liệt Triệu Kiều quang

Cờ vàng khỡi nghĩa quân Ngô khiếp,

Voi trắng tung hoành giặc Lữ tan.

Khăn yếm những mong đền nợ nước,

Áo cơm bao quản gánh giang sơn.

Núi Bồ làm dấu ghi thiên cổ,

Máy tạo hưng vong cũng khó lường.

(Trích: Vịnh miếu Bà Triệu)





Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét