(Cột đồng nay đã mọc rêu xanh chưa?)
Đằng giang tự cổ huyết do hồng!
(Sông Bạch Đằng từ xưa máu đã nhuộm đỏ)
Theo Đào Duy Anh khởi đầu đề mục 'Les Colonnes de Bronze de Ma Vien' trong tập san Bulletin des Amis du Vieux Hue số tháng 10 và 11 năm 1943 với nhận xét như sau: "Cột đồng Mã Viện luôn là một bí ẩn lịch sử mà mãi đến nay vẫn chưa hề được sáng tỏ". Ông nêu ra nghi vấn phải chăng cột đồng Mã Viện thực sự hiện hữu? Và nếu ta không tìm thấy dấu vết nào liên quan về chúng vậy biết tìm chúng nơi đâu?
Theo An-Nam Chí Lược của Lê Tắc (đầu thế kỷ thứ 14), bộ sử lược lâu đời nhất của nước ta có đề cập đến di tích này, thì thuở trước ở vùng hang động Cổ Sâm thuộc Khâm Châu có những cột đồng do Mã Viện dựng nên. Sang đến thế kỷ thứ 19, Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục cũng nhắc lại lời hăm dọa trên của Mã Viện. Tuy nhiên sách sử Tàu thì khác, cả Hậu Hán Thư (chương nói về tiểu sử của Mã Viện) lẫn Hậu Hán Ký đều không hề nhắc đến việc Mã Viện cho dựng những cây trụ đồng ở nước Nam. Dựa theo đó, nhà Hán học lừng danh Henri Maspéro trong tập XVIII, số 3 năm 1918 của tập san Bulletin de l'EFEO (Trường Viễn Đông Bác Cổ), trong phần biên khảo về cuộc viễn chinh của Mã Viện đã không hề nhắc đến những cây cột đồng Mã Viện mà cũng chẳng có lời phủ nhận về sự hiện hữu của chúng. Về sau, Nguyễn Văn Tố, làm phụ tá cho Viễn Đông Bác Cổ, trong Tri Tân số 14 phát hành ngày 12 tháng 9 năm 1941 đã thu thập được một số tài liệu từ cả Việt lẫn Hán về cột đồng Mã Viện và đưa ra nhiều thắc mắc nhưng bấy giờ ông cũng không giúp làm sáng tỏ gì hơn về nghi vấn nêu trên.
Sách Nhất Thống Chí nhà Ðại Thanh có chép:
Tương truyền cột đồng ở về động Cổ Sâm châu Khâm, Mã viện có thề rằng: “Ðồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt”, nghĩa là “Cột đồng ấy gãy thì Giao Chỉ bị diệt”, nên người Việt đi qua dưới chân cột đồng ấy cứ lấy đá bồi đắp lên mãi thành gò đống cao.
Lại ghi rõ: “Vì thấy huyện Tây Vu có đến ba vạn ba nghìn hộ, Mã Viện xin chia ra làm hai huyện Phong Khê và Vọng Hải. Vua Hán y cho Mã Viện lại lập thành quách, đặt tỉnh ấp (xóm làng), đắp thành Kiển Giang ở Phong Khê. Thành này hình tròn như cái Tổ kén. Nên gọi là thành Kiển giang.„…. Như vậy, trụ đồng Mã Viện là một câu chuyện có thật, đã được ghi vào sử liệu của cả hai nước Trung Hoa và Việt Nam. Ðây không phải là một huyền thoại hay hư cấu.
Vào đời vua Trần Thánh Tôn, Ngài đã cho người đi tìm lại dấu tích cột đồng nhưng không thấy. “Tháng 4 mùa hạ (1272,) sai viên ngoại lang là Lê Kính Phu sang hội với người nhà Nguyên biện luận việc cương giới. Nhà Nguyên sai Ngột Lương sang hỏi giới mốc đồng trụ ngày trước, nhà vua phái Lê Kính Phu đi hội đồng khám xét. Kính Phu nói với Nhà Nguyên rằng: “Chỗ cột đồng do Mã Viện dựng lên lâu ngày bị chìm lấp, nay không thể biết ở chỗ nào”.(KDVSTGCM, Quyển VII tr. 219)
Theo sử gia Phạm Văn Sơn chuyện cột đồng Mã Viện thiết tưởng không đáng tin lắm chỉ nên coi là một giai thoại không hơn không kém... Nếu coi cột đồng Mã Viện là một mỹ đàm thì chép vào sử để làm một câu chuyện kể chơi cho thú vị thiết tưởng không hại gì. (Việt sử Tân Biên, tr.199).
Còn tác giả Trương Thái Du trong bài “Một cách tiếp cận những vấn đề cổ sử Việt Nam (Talawas - lịch sử). Thì cho rằng: “Cột đồng Mã Viện dựng năm 43 ở quận Giao Chỉ và Tây Ðồ Di cũng chính là đài quan trắc thiên văn... Trong công tác thiên văn thời Mã Viện, để xác định những vùng đất mới, cần phải tiến hành quan trắc các chỉ số năm này qua năm khác.„
Theo nhiều nhà nghiên cứu khác, cột đồng chỉ là cột mốc biên giới mà thôi. Lối giải thích này cũng kém thuyết phục. Nếu là cột mốc biên giới tại sao không ghi những thông tin cần có của vùng biên giới mà lại ghi câu: “Trụ đồng chiết , Giao Chỉ diệt” trên cột đồng? Thứ nữa là cột mốc biên giới tại sao không đặt tại những con đường đi giữa ranh giới của hai nước, mà lại đặt tại một hang động trong vùng hẻo lánh?
Không phải ngẫu nhiên mà Hai bà Trưng, sau khi phát động cuộc nổi dậy, chỉ trong vòng một tháng mà đã chiếm được 65 thành trì trên toàn cõi Lĩnh Nam, làm rung rinh triều đình nhà Đông Hán. Một nữ lưu xứ Giao Châu nhỏ bé, thuộc phiên trấn Nam Man (như quan niệm của nhà Hán), nổi lên xưng hùng xưng bá, chống lại Thiên Triều như một thách thức sống còn với Đại Hán. Nên giới cầm quyền đầu sỏ Trung Hoa không thể làm ngơ mà không sinh tử cho được.
Một câu hỏi đặt ra là: tại sao trong suốt gần 2.000 năm kế tiếp dân tộc ta vẫn không xuất hiện được một vị nữ anh hùng thứ hai có tầm cỡ Bà Trưng cho dù lịch sử Việt Nam là lịch sử của chiến tranh chống ngoại xâm từ đó cho đến nay? Phải chăng người phụ nữ Việt Nam yếu hèn? Hay là có sự cản trở bởi một huyền lực nào đó xuất phát từ thời gian sau khi Hai Bà Trưng thất trận, đất nước rơi vào sự đô hộ của người Hán, mà lịch sử chưa làm sáng tỏ?
Dựng cột đồng. Đây có phải là một trận đồ phong thủy mà Mã Viện bày ra nhằm hãm hại đất Giao Chỉ. Hai Bà Trưng đối với Việt Nam là những anh hùng dân tộc cái thế. Nhưng theo quan niệm của triều đình Hán hai bà Trưng chỉ là yêu tặc.
Theo An Nam Chí Lược (trang 40) do tác giả Lê Tắc là người Việt Nam, chạy qua sống ở Trung Hoa và viết sử theo quan niệm của Trung Hoa như sau: “Năm Kiến Võ thứ 16 của Hán Quang Vũ Ðế (sau công nguyên 40), người đàn bà Giao Chỉ là Trưng Trắc làm phản, quận Cửu Chân và quận Nhật Nam đều hưởng ứng theo. đánh các quận ấp, cướp được 60 thành, rồi tự lập làm vua... Ðến năm Kiến Võ thứ 19 Mã Viện chém yêu tặc là Trưng Nhị (Nhị là em gái của Trưng Trắc) và đánh luôn dư đảng, bọn Ðô Lương, đến huyện Cư Phong, bọn này chịu đầu hàng”...
Vào thời đại nhà Hán, thuật phong thủy, địa lý rất thịnh hành, tất cả những công trình xây dựng mồ mả, lâu đài đều tuân thủ nghiêm về địa lý phong thủy.
Ảnh hưởng bởi quan niệm này, Mã Viện sau khi trừ diệt được hai Bà Trưng, đã bày một trận đồ phong thủy để diệt tận gốc yêu quái, trừ hậu hoạn, nhằm ngăn chặn mầm nữ tặc tái xuất trên vùng đất mới bình định.
Vậy Mã Viện cho dựng một trụ đồng ở đâu? Tại Cổ Sâm hay Cổ Lâu? Phải chăng động Cổ Sâm chính là huyệt hàm rồng kết phát làm vua của đất Giao Chỉ nên Mã Viện muốn phá hủy để đất nước không còn phát nữ vương nữa?
Nếu tự nhiên Mã Viện cho đào sâu xuống để chôn hoàn toàn một trụ đồng mà không có lý do chính đáng thì mọi người sẽ nghi ngờ, và gặp nhiều khó khăn trong thực hiện, vả lại cũng kém hiệu quả về mặt phong thủy. Vì thế mà Mã Viện đã thâm độc, cho dựng đứng trụ đồng không cần phải chôn sâu và ghi khắc câu chữ “Trụ Ðồng chiết, Giao Chỉ diệt” bề ngoài như là hăm dọa, nhưng thực chất là khích động lòng tự ái dân tộc của dân Giao Chỉ, rồi ngầm xui người dân, muốn tránh hoạ, mỗi ngày ném gạch đá vào trụ đồng để chôn lấp. Sự việc này có hai tác dụng thứ nhất là giữ cho trụ đồng không bị nghiêng ngả, không bị đào bới. Thứ hai trụ đồng to nặng được định vị trên một tiết diện nhỏ thì dễ dàng lún sâu dần vào lòng đất theo thời gian. Mỗi khi có mưa, đất nở và mềm ra, cột càng tiến sâu vào huyệt đạo thì tác dụng phong thủy lại càng tăng cao. Nghĩ ra được qủi kế thâm sâu như vậy phi người mưu lược như Mã Viện, khó ai có thể sánh kịp.
Về ý nghĩa của câu: “Ðồng trụ chiết... Giao Chỉ diệt” ở đây có phải là một câu thần phù? Hay còn ẩn dấu điều gì để đánh lạc sự chú ý tò mò? Nghiã thực của chữ “Chiết„ ở đây chưa chắc đã là “gãy” mà lại là “tách” làm hai, như dùng vật cứng tách đôi một tảng đá lớn chẳng hạn. Do đó câu trên nên giải thích là “trụ đồng tách huyệt (đế vương) ra làm hai, vua Giao Chỉ bị giết”. Chứ không thể dịch là trụ đồng bị gãy, dân Giao Chỉ bị giết là chưa hợp lý. Như vậy câu trên có hai chữ bị ẩn dấu là chữ huyệt và chữ vương.
Đặc biệt, Kiển Thành hình cái kén, nếu chúng ta cô lập hai sự kiện này, thì sẽ khó mà thấy âm mưu tàn độc của Mã Viện. Vả lại nếu kết hợp cả hai sự kiện này bằng một hình vẽ tượng hình thì có thể sẽ gợi ta liên tưởng tới một điều gì chăng?
(Nguồn: Thiên Ðức )
Hình dáng Kiển Thành, tổ con tằm, Âm, Thủy, tượng hình của người đàn bà, kết hợp với hình dáng trụ đồng Mã Viện, Dương, Hỏa, tượng hình của người đàn ông! Theo Kinh Dịch lý thuyết Vũ trụ: Thái Cực - Lưỡng Nghi - Tứ Tượng - Bát Quái! Theo thuật phong thủy, nói về nhà cửa thường sử dụng bùa bát quái để trấn yểm tà khí. Trong phạm vi rộng lớn của một đất nước, bùa bát quái không có hiệu lực, vì thế Mã Viện đã sử dụng loại bùa có tầm ảnh hưởng mạnh hơn đó là loại bùa Lưỡng Nghi tức là bùa Âm Dương có hiệu lực cao hơn bùa bát quái hai bậc theo Kinh Dịch. Loại bùa này được thực hiện bởi hai công trình: Kiển Thành, Âm thủy và trụ Ðồng Mã Viện, Dương Hỏa.
Nếu nói theo kiểu dung tục thì Mã Viện đã dùng hình thức “Ðóng cọc người đàn bà Giao Chỉ” bằng một ám toán thô lậu như thế nhằm triệt phá con đường kết phát vương quyền đối với nữ giới trong tương lai.
Nguyên tắc của đạo bùa ngải, phong thủy là càng bí mật, càng bền lâu thì tác dụng càng to lớn. Nếu người đặt bùa mà bị phát giác thì sinh tác động ngược, quật trở lại ngay chính kẻ chủ mưu. Vì thế các tài liệu ghi chép của người Hán về lĩnh vực này là rất khó giải mã. Nó là các bí tích, bí truyền. Vì quyền lợi dân tộc sống còn của họ. Khơi khơi người ngoài khó mà tiếp cận mà hiểu rõ ngọn ngành.
Ngay nhân vật Mã Viện, với người Việt là kẻ thù truyền kiếp. Nhưng dưới nhãn quan của người Trung Hoa thì đó là một anh hùng xuất chúng. Chiến tích lớn nhất của Mã Viện là việc chinh phục Giao Chỉ. Nhờ dập tắt cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng, nên Viện đã được Hán Quang Vũ phong tước Hầu, hiệu "Phục Ba tướng quân". Họ Mã được giới viết sử Trung Hoa suy tôn như một chiến binh vĩ đại vào bậc nhất trong lịch sử. Với câu nói nói rất nổi tiếng được lưu truyền rộng rãi là: "da ngựa bọc thây" (馬革裹屍 - mã cách khỏa thi), ý nói mong muốn được chết trên chiến trường mặc dù phải dùng da ngựa để bọc thây chứ không mong muốn chết già nơi xó nhà. Cả câu: "vẽ hổ không thành, lại thành chó" (畫虎不成, 反類犬 - họa hổ bất thành, phản loại khuyển). Nhiều nhà nghiên cứu đều cho Mã Viện là nhà quân sự, nhà chính trị văn võ toàn tài. Vì thế các đền thờ và tôn tượng Mã Phục Ba được hiện diện trên nhiều vùng lãnh thổ Trung Quốc cho tới ngày nay.
Nhiều ghi chép đều nói đến việc Mã Viện càn quét nhiều trống đồng nước ta để đúc thành ngựa mẫu mang về Trung nguyên dâng vua Hán Quang Vũ. Người thứ hai phá nhiều pháp khí (chuông chùa) Đại Việt là Vương Thông nhà Minh, đem về đúc súng.
Những người tự ti, vẫn tin rằng thời xưa dân ta “ăn lông ở lỗ”, nhờ Trung Quốc mới được khai hóa. Xin đọc kỹ đoạn văn sau đây để biết rằng thuở đầu Công nguyên nước ta đã có luật, Mã Viện phân tích rồi tâu lên vua Quang Vũ để bác hơn 10 điều khoản luật nước ta không thích hợp với luật nhà Hán: 條 奏 越 律 與 漢 律 駁 者 十 餘 事 , 與 越 人 申 明 舊 制 以 約 束 之 (Ðiều tấu Việt luật dữ Hán luật bác giả thập dư sự, dữ Việt nhân thân minh cựu chế dĩ ước thúc chi: Phân tích và tâu lên luật Hán và luật Việt, bác hơn 10 điều; trình bày rõ chế độ cũ [của nhà Hán] để ước thúc.) [Theo Hồ Bạch Thảo - © 2008 talawas]
Thật vậy, thời Lĩnh Nam, nước ta có ba lĩnh vực là rất vượt trội. Đó là kỹ nghệ luyện kim (đúc trống đồng). Lịch số (Qui Lịch) và chữ Khoa Đẩu (chữ dạng ký âm rất rễ phổ cập). Nhưng sau khi tiêu diệt được triều đại Bà Trưng thì Mã Viện đã cho đốt, đập phá và tịch thu tất cả những sách, bia đá, trống đồng… và cấm hoàn toàn việc dùng chữ Khoa Đẩu để nhằm Hán hoá tận gốc người Việt.
Tới thế kỷ 15 thì một cuộc đốt sách và cạo bia đá (chữ Hán) đã được thực hiện với một qui mô rất lớn bởi tên Trương Phụ nhà Minh trên khắp cả nước ta. Một sự thật đau lòng khác là rất nhiều cuốn phổ qúi ở các đền, miếu, đình và chùa chiền thờ các vị anh hùng có công với nước đều bị cướp hay đánh tráo bằng các cuốn Phổ giả nhằm làm cho hậu thế hiểu sai lệch về công nghiệp của tổ tiên.
Vào thời nhà Trần khi cụ Trạng Nguyên Mạc đĩnh Chi đi sứ vừa sang tới đất Tàu thì viên quan trú phòng sở tại ra một câu xướng rất ngạo mạn:
Đồng Trụ chí kim đài dĩ lục?
(Cột đồng nay đã mọc rêu xanh chưa?)
Đằng giang tự cổ huyết do hồng!
(Sông Bạch Đằng từ xưa máu đã nhuộm đỏ), cụ Mạc đĩnh Chi đối lại ngay.
Viên tướng biên trấn Tàu ra câu xướng với ý nghĩa ca ngợi chiến tích xưa của Mã Viện và đã bị cụ Trạng Mạc đối lại bằng cách cố ý nhắc lại những chiến thắng lẫy lừng của quân Việt trên sông Bạch Đằng thời vua Ngô Quyền và thời Nhà Trần.
Trở lại với chuyện cột đồng Mã Viện! Trong thời đại không gian điện tử hiện nay, chắc chắn có người sẽ đánh giá câu chuyện kể trên thuộc vào loại hoang đường nhảm nhí.
Nhưng nghi vấn về phong thuỷ liên quan đến hiện tượng trấn yểm của Mã Viện, của Cao Biền trên nhiều vùng long mạch địa linh của Việt Nam từ thời bán khai vẫn luôn là những nghi án lịch sử còn đang để mở, đang chờ đợi câu trả lời thoả đáng của hậu thế.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét